• Loading...
Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia. (Henry David Thoreau)
 
Hoàng Sa - Trường Sa trong trái tim Tổ quốc
Ngày xuất bản: 23/08/2016 2:19:15 SA

Những ngày qua, dư luận trong nước và Quốc tế đang sục sôi, bất bình trước hành động ngang ngược của Trung Quốc khi nước này liều lĩnh đơn phương hạ đặt giàn khoan mang tên Hải Dương 981 tại vùng biển kinh tế, thềm lục địa thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Hành động của phía Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, cũng như đã vi phạm các quy định liên quan của Luật pháp Quốc tế trong đó có Công ước LHQ về Luật biển 1982, trái với tinh thần và lời văn Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Hành vi và thái độ của Trung Quốc cũng đi ngược lại các thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo hai nước và “Thỏa thuận nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển”, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tin cậy chính trị và các mặt hợp tác giữa hai nước, làm tổn thương tình cảm của người dân Việt Nam. Bảo vệ biển, bảo vệ chủ quyền đất nước là sự lựa chọn có tính chất sống còn của dân tộc ViệtNam. Mỗi người dân Việt Nam đã và đang cùng chung tay góp sức gìn giữ biển đảo quê hương.

 Để giúp bạn đọc có được những kiến thức cơ bản về tự nhiên, địa lý hai quần đảo Trường Sa và Hoàng sa; Luật Biển quốc tế và hệ thống pháp luật về biển, đảo của nhà nước ta; những cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo trên Biển Đông (đặc biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Đồng thời giới thiệu những bài viết, những ký ức của các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia bảo vệ vẹn toàn chủ quyền biển đảo.  

 Thư viện tỉnh Yên Bái trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách: “Hoàng Sa – Trường Sa trong trái tim tổ quốc”của nhóm tác giả  Nguyễn Thái Anh chủ biên, Nguyễn Đức, Đàm Xuân biên soạn. Sách được Nhà xuất bản Văn hóa thông tin phát hành năm 2013, 447 trang, khổ 27cm. Sách hiện nay đang phục vụ tại Phòng Mượn của Thư viện tỉnh Yên Bái. Xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc.

 

Nội dung sách gồm 3 phần:

               Phần 1-  Những kiến thức căn bản về biển đảo

               Phần 2 -  Hoàng Sa, Trường Sa trong trái tim tổ quốc

               Phần 3 -  Những ký ức không thể lãng quên

 

Phần 1 – Những kiến thức căn bản về biển đảo

Giới thiệu những kiến thức cần thiết, bổ ích, căn bản về biển đảo, như tổng quan về biển đảo Việt Nam, Công ước luật biển quốc tế năm 1982, biển trong dựng nước và giữ nước,… để bạn đọc có cái nhìn khái quát về biển đảo của Việt Nam, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc. 

 Tổng quan về biển Việt Nam

Biển Đông, còn gọi là biển Nam Trung Hoa, hoặc “The South China Sea” (tiếng anh) và “Mer de Chine Méridionale” (tiếng Pháp), là một biển rìa Tây Thái Bình Dương. Nhân dân Việt Nam vẫn gọi Biển Đông theo truyền thống, gắn liền với lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Tên Biển Đông đã được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, năm 1435 thời Vua Lê Thánh Tông.

Biển Đông là một biển nửa kín, được bao bọc bởi lục địa Châu Á và bán đảo Malacca về phía Tây, đảo Đài Loan, quần đảo Philipin và đảo Kalimantan về phía Đông. Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông và được bao bọc bởi 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philipines, Indonexia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan.

Việt Nam nằm ngay bên bờ Biển Đông, giáp với Biển Đông ở hướng Đông, Đông Nam và Tây Nam. Bờ biển nước ta cong hình chữ S, kéo dài trên 3.260km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang). Trong số 64 tỉnh, thành phố của nước ta, có 28 tỉnh, thành phố giáp biển. Trung bình cứ khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển (mức trung bình trên thế giới là 600km2 đất liền/1km bờ biển). Nơi gần biển nhất ở nước ta (Quảng Bình) chỉ cách biển khoảng 50km, nơi xa nhất (Điện Biên) cách biển khoảng 500km. Vùng Biển nước ta rộng lớn với hàng nghìn đảo lớn nhỏ, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm biển Đông, có vị trí chiến lược quan trọng. Từ hàng nghìn năm nay, biển – đảo Việt Nam đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Biển gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước.

1.  Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của Biển Việt Nam

            Vùng biển và ven biển Việt Nam là cửa mở lớn, là “mặt tiền” quan trọng của đất nước, nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế  năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Hầu hết các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh trên Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.

Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu và cảng biển trung bình. Nhìn vào tương lai, hệ thồng liên vận Đông Nam Á, nước ta cũng có thể phát triển một số cảng chuyên dụng hoặc cảng quá cảnh cho các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Myanma.

* Một số nét sơ lược về đảo và quần đảo nước ta

Vùng Biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó: Vùng biển Đông Bắc có trên 3000 đảo; Bắc trung bộ trên 40 đảo; còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

            Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, có vai trò lớn lao trong công cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

            Căn cứ vào vị trí chiến lược và điều kiện địa lý kinh tế, dân cư, có thể chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:

a. Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trên các đảo  có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta. Đó là các đảo, quần đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vỹ…

b. Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Đó là các đảo như: Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc.

c. Các đảo ven bờ gần có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta.

Đó là các đảo thuộc huyện đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vỹ, huyện đảo Phú Quý, Huyện đảo Côn Sơn, Huyện đảo Lý Sơn, huyện đảo Phú Quốc…

Đ. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa

Quần đảo Hoàng Sa (ParacelsIsland) gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô, đá ngầm và bãi cạn được chia thành hai nhóm (nhóm An Vĩnh ở phía Đông Bắc và nhóm Lưỡi Liềm ở phía Tây Nam), cách đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré) khoảng 120 hải lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10km2 và đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, diện tích khoảng 1,5km2.

Quần đảo Trường Sa (SapratlyIsland) gồm hơn 100 hòn đảo, đá, cồn san hô và bãi cát, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng trên 200 hải lý về phía Đông Nam, cách Cam Ranh khoảng 248 hải lý, cách đảo Phú Quý khoảng 203 hải lý, trong đó có 9 đảo, bãi quan trọng là các đảo Trường Sa, An Bang, Ba Đình, Nam Yết, Loại Ta, Thị Tứ, Song Tử Đông, Song Tử Tây và Bãi An Nhơn. Diện tích tòan bộ phần đất nổi của quần đảo cũng khoảng 10km2 , trong đó có đảo Ba Đình lớn nhất, rộng khoảng 0,5km2

* Hai vịnh lớn trên Biển Đông

a. Vịnh Bắc Bộ

Vịnh Bắc Bộ là một trong những vịnh lớn của thế giới, có diện tích khoảng 126.250km2 (36.000 hải lý vuông), rộng từ 105036E đến 109055E trải dài từ vĩ tuyến 170N đến vĩ truyến 210N, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310km và nơi hẹp nhất khoảng 220km (119 hải lý).

Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài khoảng 763km và bờ biển thuộc hai tỉnh Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc với tổng chiều dài khoảng 695km. Vịnh thông ra Biển Đông qua cửa phía Nam, nằm giữa Tây Nam đảo Hải Nam và bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) và qua eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và Phía Bắc đảo Hải Nam.

Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ký ngày 25-12-2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc xác định ranh giới lãnh hải của hai nước ở ngoài cửa sông Bắc Luân, cũng như ranh giới vùng đặc quyền  kinh tế và thềm lục địa của nước ta và Trung Quốc ở trong Vịnh Bắc Bộ. Về diện tích tổng thể theo mực nước trung bình thì Việt Nam được 53,23%, Trung Quốc được 46,77% diện tích vịnh. Phần vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vỹ với diện tích 2,5km2 nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110km, cách đảo Hải Nam khoảng 13km. Phía Trung Quốc có một ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.

Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh. Vịnh là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là hải sản và dầu khí. Trong vịnh có nhiều ngư trường lớn, cung cấp nguồn hải sản quan trọng trong đời sống của nhân dân hai nước.

b. Vịnh Thái Lan

Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam biển Đông được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia, trải dài từ vĩ tuyến 50 đến 140 Bắc và từ kinh tuyến 990 đến 1050 Đông và kết thúc ở phía Bắc Đông Bắc ở mũi Cà Mau tại 80 36’Bắc – 1020 21’ Đông. Vịnh rộng khoảng 293.000km2, chu vi khoảng 2.300km, chiều dài 628km. Vịnh Thái Lan là một vịnh nông với độ sâu trung bình khoảng 60 – 80m. Đảo Phú Quốc trong vịnh là đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 567km. Vịnh thông ra biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau (Việt Nam) và mũi Trenggranu (Malaysia) cách nhau chừng 400km (215 hải lý). Tài nguyên thiên nhiên của vùng biển này bao gồm hai loại: một bên là tài nguyên sinh vật biển với khoảng hơn 100 loài cá, trong số đó có khoảng 200 loài cá có tầm quan trọng về kinh tế, và bên kia là tài nguyên khoáng sản chứa trong các trầm tích của thềm lục địa.

2.  Tiềm năng và tầm quan trọng của Biển Việt Nam

Biển có ý nghĩa to lớn để đất nước ta phát triển kinh tế, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong tương lai. Tiềm năng tài nguyên Biển của nước ta rất đáng kể và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.

Biển Việt Nam có tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt và các nguyên liệu chiến lược khác, đảm bảo cho an ninh năng lượng quốc gia, cho đất nước tự chủ hơn trong phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay. Cùng với đất liền, vùng biển nước ta nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, một thị trường có sức mua khá lớn, một vùng kinh tế nhiều thập kỉ phát triển năng động.

Thềm lục địa Việt Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng khai thác nguồn khoáng sản này. So với các nước Đông Nam Á, trữ lượng dầu khí nước ta đứng thứ 3, sau Indonesia và Malaysia. Tuy mới ra đời nhưng ngành dầu khí của ta đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong những ngành khai thác biển, đồng thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu và thu nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự phát triển của một số ngành khác như công nghiệp hóa dầu, giao thông vận tải, thương mại trong nước và khu vực.

3.  Về quốc phòng - an ninh

Biển nước ta là một không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng an ninh của đất nước. Với một vùng biển rộng lớn, bờ biển dài, địa hình bờ biển quanh co, khúc khuỷu, có nhiều dãy núi chạy lan ra biển, chiều ngang đất liền có nơi chỉ rộng khoảng 50km (tỉnh Quảng Bình), nên việc phòng thủ từ hướng biển luôn mang tính chiến lược. Mạng lưới sông ngòi chằng chịt chảy qua các miền của đất nước, chia cắt đất liền thành nhiều khúc, cắt ngang các tuyến giao thông chiến lược Bắc – Nam. Ở nhiều nơi, núi chạy lan ra sát biển, tạo thành những địa hình hiểm trở, những vịnh kín, xen lẫn với những bờ biển bằng phẳng, thuận tiện cho việc trú đậu tàu thuyền và chuyển quân bằng đường biển. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nước ta cùng với dải đất liền ven biển thuận lợi cho việc xây dựng các căn cớ quân sự, điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, với thế bố trí chiến lược hợp thế trên bờ, dưới nước, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển của nước ta.

4. Về mặt pháp lý – chính trị

 Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước ta đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Nhà  nước ta đã chính thức hóa cơ sở pháp lý quốc tế về phạm vi các vùng biển và thềm lục địa, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền vùng biển và thềm lục địa, bảo vệ lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo. Đồng thời thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Ngày 18/12/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực biên giới biển gồm 5 chương, 37 điều – quy định hoạt động của người, tàu thuyền Việt Nam, tàu thuyền nước ngoài trong khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển.

Vươn ra biển, khai thác và bảo vệ biển là sự lựa chọn có tính chất sống còn của dân tộc Việt Nam. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã ra Nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” nhằm nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước mạnh về biển, trong đó đề ra các mục tiêu và những giải pháp chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nước ta có quan hệ thương mại song phương với trên 100 nước, quan hệ đầu tư với trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ; tham gia các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), tổ chức Thương mại thế giới (WTO)…Tới đây các hoạt động hợp tác song phương, đa phương diễn ra sẽ rộng lớn hơn trong nhiều lĩnh vực cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại… Trong đó, hoạt động trên biển sẽ diễn ra với quy mô và cường độ lớn hơn, thuận lợi xen lẫn thách thức. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tích cực thực hiện các cam kết quốc tế về biển. Đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trường thuận lợi để nước ta mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật, đầu tư, đổi mới công nghệ, hiện đại hiện đại hóa trang bị cho quốc phòng - an ninh; tăng cường hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia thành viên trong khu vực và quốc tế…, với mục đích cao nhất là ổn định để phát triển đất nước; sử dụng biển tương xứng với tầm vóc của nó trong cơ cấu kinh tế cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 

CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN QUỐC TẾ NĂM 1982:

CÁC VÙNG BIỂN CỦA QUỐC GIA VEN BIỂN

Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc (thường được gọi tắt là Công ước luật biển 1982) được thông qua tại thành phố Môn - tê - gô – bay của Gia- mai- ca vào ngày 10 - 12 - 1982. Công ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Sing-ga-po và Bru-nây.

Công ước quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển. Công ước Luật Biển năm 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển.

 

Nội thủy (Internal Waters): Điều 8 của Công ước Luật biển năm 1982 quy định, nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.

Lãnh hải (Territorial Sea): Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở. Theo Luật Biển quốc tế cho đến những năm 60 của thế kỉ XX, chiều rộng của lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ có 03 hải lý (mỗi hải lý bằng 1.852m). Theo Luật biển quốc tế hiện đại, cụ thể là điều 3 của Công ước Luật Biển năm 1982 thì chiều rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý.

Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình. Chủ quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lãnh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền đối với vùng nước lãnh hải không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.

Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.

Vùng tiếp giáp lãnh hải( Contiguous Zone): Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài và sát với lãnh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải cũng không quá 12 hải lý. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình. Quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải để trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone): Đó là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Đây là một chế định pháp lý hoàn toàn mới vì theo Luật Biển quốc tế cho đến những năm 50 của thế kỷ XX, các quốc gia ven biển không có vùng biển này.

            Theo điều 56 của Công ước Luật Biển năm 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, các quốc gia ven biển có quyền, chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó. Cho đến nay, tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang khai thác chủ yếu là tôm, cá.

            Quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Công ước Luật Biển năm 1982, quy định các quốc gia khác, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, được hưởng một số quyền nhất định ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển như quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không.

Thềm lục địa (Continental Shelf): Thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển. Trên thực tế, rìa ngoài của thềm lục địa ở các khu vực có khác nhau: Có nơi hẹp, không đến 200 hải lý nhưng có nơi rộng đến hàng trăm hải lý. Điều 76 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định rất rõ ràng. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Tuy nhiên, để mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý thì quốc gia ven biển liên quan phải trình cho Ủy ban Thềm lục địa của Liên Hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Sau đó , Ủy ban Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc sẽ xem xét và ra khuyến nghị.

            Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Hiện nay, các nước ven biển đang khai thác dầu và khí để phục vụ phát triển đất nước. Sau này, khi các nguồn tài nguyên ở trên đất liền khan hiếm thì các quốc gia ven biển sẽ khai thác các tài nguyên khác ở thềm lục địa của mình. Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của các quốc gia ven biển.

            Điều cần nhấn mạnh là, một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các quyền tương ứng như đã nêu trên đối với các vùng biển của mình, nhưng mặt khác họ có nghĩ vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.

 Phần 2 – Hoàng Sa – Trường Sa trong trái tim tổ quốc

Giới thiệu những bài viết quan trọng, những tài liệu, cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trước toàn thế giới, là bằng chứng quan trọng để đấu tranh với Trung Quốc và khẳng định chủ quyền  đất nước, góp phần giáo dục các thế hệ người Việt Nam yêu nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. 

CHỨNG CỨ PHÁP LÝ

VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG,

VIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH LỊCH SỬ CHỦ QUYỀN

                                       TS. Sử học Nguyễn Nhã

Lịch sử chủ quyền của Việt Nam đã được khẳng định

            Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được minh chứng bằng những tư liệu lịch sử không những của Việt Nam, mà còn của chính Trung Hoa cũng như phương Tây. Đồng thời, bằng quá trình chiếm hữu thực sự, hòa bình và thực thi liên tục của các nước Việt Nam quá các thời kỳ lịch sử từ đầu thế kỷ XVII. Những bằng chứng này khác hẳn với những tư liệu mà Trung Quốc đã cố viện dẫn.

            Hầu hết các tư liệu Việt Nam, đều là tư liệu thuộc nhà nước, đặc biệt là “ Hội điển”, loại sách ghi điển chế biến thành luật lệ của triều đình hoặc các châu bản, tức những văn bản trao đổi giữa vua và các đình thần hoặc tỉnh thần, đều trực tiếp minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tư liệu Việt Nam đã đề cập đến địa danh Hoàng Sa, tiếng Nôm cùng nghĩa gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng, lại rất nhất quán từ đầu thế kỷ XVII, tức từ thời Chúa Nguyễn đến thế kỷ XX. Cho đến nay, vẫn còn giữ địa danh Hoàng Sa. Địa danh Hoàng Sa (chữ Nôm là Cát Vàng) cũng đã được người Phương Tây xác nhận chính là Paracel vào thế kỷ XIX.

            Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: Từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII) sang thời Tây Sơn rồi tới đầu triều Nguyễn (từ vua Gia Long) qua hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như sự khẳng định, sự quản hạt hành chánh của chính quyền Việt Nam và sau đó đến các triều Minh Mạng, Thiệu Trị qua hoạt động của thủy quân. “Đại Nam nhất thống chí” bắt đầu soạn năm 1865, soạn xong năm 1882, ấn hành năm 1910, vẫn tiếp tục khẳng định Hoàng Sa thuộc cương vực ngoài biển của Việt Nam.

            Nếu không kể những tư liệu đại loại như Trung Quốc thường viện dẫn, tức là những người đi qua Hoàng Sa rồi cảm tác hay viết tới quần đảo này như Lý Văn Phức đi trên tàu sang Philippines năm 1832 viết “Vọng kiến vạn lý Tràng Sa tác”trong tác phẩm “Đông hành thi thuyết thảo”, Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, liên tục qua các đời từ đầu thế kỷ XVII đến khi bị các nước ngoài xâm phạm, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng trên Biển Đông. 

Khẳng định chủ quyền của vua, triều đình nhà Nguyễn

Trong khi tại Trung Quốc chưa có tài liệu nào nói rõ vua, triều đình Trung Quốc khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa, thì tài liệu chính sử của Việt Nam cho thấy vua và triều đình Việt Nam đã nhiều lần khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc lãnh hải Việt Nam. Các tài liệu chính thức của nhà nước Việt Nam, của triều đình Việt Nam như “Đại Nam Thực Lục Chính Biên”, “Đại Nam Hội Điển sự Lệ”, “Châu Bản Triều Nguyễn”, “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã ghi nhận rất rõ ràng rằng Hoàng đế Việt Nam, triều đình Việt Nam luôn khẳng định Hoàng Sa thuộc về cương vực mặt biển. Suất đinh coi là lính – được Nhà nước cấp lương thực 6 tháng, đứng đầu là cai đội hay đội trưởng được triều đình cắt cử kiêm lĩnh thủ ngự cửa biển Sa Kỳ.

Với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa- một tổ chức bán quân sự gồm 70 xuất đinh coi là lính – được Nhà nước cấp lương thực 6 tháng, đứng đầu là cai đội hay được đội trưởng được truyền hình cắt cử kiêm lĩnh thủ ngự cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi), kiêm quan đội Bắc Hải ở phía Nam, hàng năm đã được giao nhiệm vụ riêng một mình kiểm soát và khai thác định kỳ, liên tục và hòa bình hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt.

Trong các thời Chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là buổi đầu Triều Nguyễn từ 1802 đến trước 1815, hàng năm đội Sa Hoàng hoạt động trong 6 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết, tránh thời gian quá nhiều bão tố ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa.

Trong hơn hai thế kỷ từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, đội Bắc Hải cũng được cử đi tìm kiếm hải vật ở khu vực Bắc Hải tức khu vực quần đảo Trường Sa và cả Côn Đảo, Hà Tiên ở phía Nam Đại Việt. Đội Bắc Hải tuy không được chính quyền Chúa Nguyễn coi quan trọng như đội Hoàng Sa, không cần định suất hoặc lấy những người tình nguyện, song đội Bắc Hải vẫn do nhà nước quản lý.

Thời gian đội Bắc Hải hoạt động cũng bắt đầu từ lâu, trước khi “Phủ biên tạp lục” ra đời( 1776) cũng như phải sau khi đất Bình Định bắt đầu thuộc Đại Việt (1697) đến đầu Nhà Nguyễn. Suốt từ thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ năm 1816, thủy quân lại được giao trọng trách liên tục từ năm 1836 thành lệ hàng năm đi cắm cột mốc, dựng bia, đào giếng, xây dựng miếu, trồng cây…tại Hoàng Sa và Trường Sa. Thủy quân được các dân binh Hoàng Sa tiếp tục hỗ trợ như lái thuyền, lo hậu cần…

 Ngoài rất nhiều tài liệu chính thức của nhà nước dưới Triều Nguyễn, việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa còn do sách của chính người Trung Hoa viết như “Hải ngoại kỷ sự” của Thích Đại Sán viết năm 1696, nhiều tác giả phương tây như: Le Povre (1749). J. Chaigneau( 1816- 1819), Taberd(1833), Gutzlaff(1849)… cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Tiêu biểu nhất là Bản đồ “An Nam đại quốc họa đồ” của Giám mục Taberd trong cuốn  “Tự điển Việt – Latinh” (nhan đề Latino – Anamiticum) xuất bản năm 1838 đã ghi rõ: “Paracel Seu Cát Vàng” ở tọa độ hiện nay của Hoàng Sa tại Biển Đông. Trong khi bản đồ An Nam này chỉ vẽ có Paracel Seu Cát Vàng, lại không vẽ Hải Nam của Trung Quốc trong Biển Đông. Như vậy rõ ràng bản đồ “An Nam đại quốc họa đồ” đã minh chứng Cát Vàng (Hoàng Sa) chính là Paracel nằm trong vùng biển của Việt  Nam.

Chủ quyền vốn có của Việt Nam tại hoàng Sa và Trường Sa

Trong suốt thời Chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một, luôn được quản lý hành chính bởi Thừa Tuyên Quảng Nam dưới danh nghĩa Nhà Lê hay Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi) lúc là phủ, khi là trấn trong thực tế tự trị của Xứ Đàng Trong, tùy theo thời kỳ lịch sử. Bởi từ khi Nguyễn Hoàng trở lại trấn thủ Thuận Quảng (năm 1600) cho tới khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ( 1738 – 1765) xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa Chúa Nguyễn vẫn là quan trấn thủ Thừa Tuyên Quảng Nam của Đại Việt do Vua Lê trị vì.

Như thế mọi hành động xác lập chủ quyền của các Chúa Nguyễn vẫn dưới danh nghĩa nước Đại Việt và trước hết trên danh nghĩa thuộc Thừa Tuyên, Quảng Nam quản hạt. Năm 1602, với tính cách tự trị, tự quản, Nguyễn Hoàng lại đặt thành dinh Quảng Nam, quản hạt phủ Quảng Nghĩa (trước đó là phủ Tư Nghĩa). Cũng từ năm 1602, phủ Quảng Nghĩa có chức tuần phủ của khánh lý cai trị.

Trên thực tế tự trị trên, Phủ Quảng Nghĩa có huyện Bình Sơn (trước đó là huyện Bình Dương) quản lý xã An Vĩnh.“Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Đồ Lồ Thư” hay “Toàn Tập An Nam Lộ” đã ghi “Bãi Cát Vàng” (Hoàng Sa) trong phủ Quảng Nghĩa.“Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn chép “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa ( thuộc dinh Quảng Nam) huyện Bình Sơn xã An Vĩnh”, “Địa Dư Chí” của Phan Huy Chú chép “Hoàng Sa ở trấn Quảng Nghĩa”. Sang thời Tây Sơn từ 1773, phủ Quảng Nghĩa được đặt tên thành phủ Hòa Nghĩa.

Năm 1801, Hòa Nghĩa đã được gọi lại với tên Quảng Nghĩa mà tại đó ngoài viên tuần phủ, khánh lý, còn có một viên chính hộ lý, một viên đề lãnh, một viên ký lục, một viên cai phủ và một viên thư ký. Sau Quảng Ngãi trở thành trấn, rồi tỉnh, năm 1829, tiếp tục quản lý xã An Vĩnh. Dần dần xã An Hải phía Bắc cửa biển Sa Kỳ cũng cung cấp lính Hoàng Sa. Dân hai làng( xã) An Vĩnh, An Hải di dân ra Cù Lao Ré lập hai phường An Vĩnh và An Hải mà Nguyễn Thông gọi  là hai hộ An Vĩnh, An Hải. Đến đầu triều Nguyễn, khi hai phường Cù Lao Ré phát triển, xin tách khỏi hai làng cũ ở đất liền trở thành cung cấp chính dân binh cho đội Hoàng Sa. Chính Phạm Quang Anh đã được cử làm đội trưởng đội Hoàng Sa năm 1815 là người thôn An Vĩnh ở đảo Cù Lao Ré, nay thuộc thôn Đông, xã Lý Vĩnh thuộc huyện đảo Lý Sơn.

Nhiều tài liệu như “Việt Sử Cương Giám Khảo Lược” của Nguyễn Thông và “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã xác nhận Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Hoàng Sa là nơi hiểm yếu và rộng lớn, nên phủ rồi trấn, rồi tỉnh Quảng Ngãi là đơn vị hành chính luôn trực tiếp can thiệp vào những hoạt động có định kỳ hàng năm của đội dân binh Hoàng Sa để có phương tiện tốt và đảm bảo những yêu cầu của chính quyền trung ương ở Phú Xuân gọi là chính dinh, thủ phủ của Xứ Đàng Trong hay kinh đô của triều Nguyễn sau này.

Sang thời Pháp thuộc, với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp nên không cần hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những hành động khảo sát Hoàng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải Dương Học Nha Trang là những hoạt động thể thao theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15/6/1932, chính quyền Pháp ra nghị định số 156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chính gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.

Tháng 3/1938, Hoàng đế Bảo Đại ký dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi như các triều trước. Tháng 6/1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền  được dựng trên đảo Pattle vưới dòng chữ: “Répudlique Francaise – Royaume d’ Annam – Archipels des Paracels 1816 – Ile de Patte 1938”.

Còn với quần đảo Trường Sa (Spratley) phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa của Pháp, nên có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ 3 cũng như đối phó với pháp lý đế quốc. Cố vấn phấp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết trong bản ghi chú cho Vụ Châu Á Đại dương tháng 5/1950 rằng: “Việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931 – 1932 là nhân danh Hoàng đế An Nam”. Ngày 13/4/1933 một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sài Gòn đến Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sự chiếm hữu được tiến hành theo nghi thức cổ truyền của phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản, mỗi đảo nhận một bản được đóng kín trong một chai rồi được gắn trong một trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta cũng kéo cờ tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo.

 Ngày 21/12/1933, Thống Đốc Nam Kỳ M. J. Krautheimer đã ký Nghị định số 4762 sáp nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Năm 1938, Pháp cũng thiết lập  một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu – Aba (Ba Đình).

Ngày 31/3/1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại Sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu tiên khám phá ra trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Mãi đến ngày 9/3/1945, Nhật mới bắt những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam. Tuy nhiên, quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946. Pháp trở lại Việt Nam làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân Nhật từ tháng 5/1946 và Đô đốc D’Argenlieu, Cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Sau đó, tại Hội nghị San Fransico có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5-8/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại thân Pháp long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong Hội nghị bình luận gì về tuyên bố này. Điều đó cũng là cơ sở pháp lý quốc tế về chủ quyền vốn có của Việt Nam tại Trường Sa và Hoàng Sa.

Trong phần này các tác giả còn sưu tầm, biên soạn các bài viết do các học giả chuyên nghiên cứu về Trường Sa và Hoàng Sa về các văn bằng cổ bằng chứng lịch sử khẳng định Trường Sa – Hoàng Sa là của Việt Nam đó là 2 Châu bản của nhà nghiên cứu Phan Thuận An tại phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, con gái Vua Đồng Khánh, là cô ruột của Vua Bảo Đại, Tờ Châu bản thứ 2 ghi ngày 3/2/1939 đính kèm là văn bản bằng tiếng Pháp của Khâm sứ Trung kỳ Graffeuil. Văn bản thứ 3 được phát hiện tại thôn Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ (huyện Phú Lộc) là văn bản bằng chữ Hán, được lập cách đây 250 năm. Cũng như các bài báo của Mỹ tại Hội nghị San Francisco năm 1951 khẳng định chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam

                     Phần 3- Những ký ức không thể lãng quên

Giới thiệu những bài viết, những ký ức của các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia cuộc Hải chiến Trường Sa bảo vệ vẹn toàn chủ quyền, biển đảo năm 1988; và những kỉ niệm, tâm sự của những người lính trẻ hiện nay đang ngày đêm không ngủ, canh giữ Hoàng Sa, Trường Sa bảo vệ sự yên bình, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc, là phên dậu của đất liền.

                   TRƯỜNG SA – MÁU THỊT VIỆT NAM:

                                                     VÌ TRƯỜNG SA TRUNG KIÊN GIÀU ĐẸP

  Huy Hào – Bá Thư

Với bàn tay khối óc của con người, sự gắn bó giữa đất liền và quân, dân huyện đảo Trường Sa, nắng và gió Trường Sa khắc nghiêt là thế, nay cũng phải chịu thuần phục, trở thành nguồn năng lượng quý giá phục vụ đời sống, sinh hoạt của con người. Cả đất nước, cả dân tộc Việt đang hết mình vì quần đảo Trường Sa kiên trung, giàu đẹp.

Thu phục thiên nhiên

            Đến với quần đảo Trường Sa, chúng tôi mới thấy quân và dân ở đây đã chiến thắng những khó khăn, vất vả nơi đầu sóng, ngọn gió ấy như thế nào để có cuộc sống ngày càng ổn định đủ đầy.

            Từ các đảo nổi, đảo đá chìm, hay nhà giàn đứng chân giữa trùng khơi, cán bộ chiến sĩ đều chăm bẵm, vun trồng được những khoảnh rau xanh mướt, mang lại toàn những muống, đay, mồng tơi, củ cải…thân thuộc như ở quê nhà.

            Nhưng thú thật, nhưng tôi lại ấn tượng hơn cả với chậu cây mười giờ của các chiến sĩ trên đảo Thuyền Chài. Đã lâu lắm rồi, tôi mới được gặp những bông mười giờ tim tím đáng yêu ấy, mà lại là gặp ở hòn đảo đầy nắng gió trên Biển Đông này.

            Những hình ảnh đó làm chúng tôi thấy ấm lòng và thấm hơn câu nói của người lính hải quân: “Đảo là nhà, biển cả là quê hương”.

Nếu vật nuôi, cây cỏ đến từ khắp các miền quê đã chứng minh sức sống mãnh liệt trước nắng, gió nóng bỏng ở Trường Sa, thì những tấm pin mặt trời, hàng cột năng lượng gió đứng kiêu hãnh đứng ven đảo chính là hình ảnh đầy tự hào về sức mạnh và trí tuệ của con người trong việc thu phục thiên nhiên khắc nghiệt.

….

Cùng ngư dân bám biển

            Quả là thiên nhiên ở Trường Sa rất khắc nghiệt, nhưng như để bù lại, Biển Đông cũng rất hào phóng. Chả thế mà, ngay ở các đảo, mỗi năm cán bộ chiến sỹ đánh bắt được hàng tấn hải sản để bổ sung cho bữa ăn.

            Ngư dân Nguyễn Văn Thanh cùng anh em, bà con từ Bình Sơn (Quảng Ngãi) ra vùng biển quanh đảo Đá Tây câu mực xà đã nhiều năm. Ông bảo giờ bà con đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn trước nhiều để bám biển. Trên đảo, Trạm dịch vụ hậu cần nghề cá (thuộc Công ty TNHH MTV Dịch vụ khai thác hải sản Biển Đông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cung ứng miễn phí nước ngọt cho bà con ngư dân; cung ứng nhiên liệu, lương thực, thực phẩm bằng giá ở đất liền; sửa chữa tàu thuyền cho bà con không tính phí. Trạm cũng chủ động đón tàu ngư dân vào trú, tránh bão, chăm sóc y tế khi cần thiết; chuyển hải sản về đất liền cho bà con theo giá thỏa thuận… nhờ đó, bà con bám biển được lâu hơn, nâng cao được năng suất khai thác.

            Lão ngư dân nở nụ cười rạng rỡ trên gương mặt xạm nắng gió, nói tiếp :

“ Sướng nhất là mua nhiên liệu, lương thực, thực phẩm phục vụ đánh bắt, tụi tui chỉ cần điện về nhà, chuyển khoản cho bên dịch vụ là có ngay. Thế nên, tụi tôi đi biển, gia đình ở nhà cũng yên tâm”.

            Chúng tôi thấy vui lây với ông và bà con ngư dân. Sắp tới niềm vui ấy chắc chắn còn lớn hơn, khi dự án tôn tạo, nâng cấp khu dịch vụ  hậu cần nghề cá ở đảo Đá Tây được thực hiện.

….

Vì Trường Sa thân yêu

            Suốt với hành trình đến với biển đảo Trường Sa. Trong tôi hiển hiện ý niệm ấy. Khi đại tá Đỗ Minh Thái, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân xúc động đọc lời tưởng niệm các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương và giàn khoan DK1, chúng tôi càng thấm thía những mất mát, đau thương của bao thế hệ, vì sự yên bình, toàn vẹn chủ quyền biển đảo của tổ quốc.

            Đó là Thượng úy Nguyễn Hữu Quảng, Phó chính trị viên nhà giàn Phúc Tần. Trong khoảnh khắc cận kề giữa sự sống và cái chết, anh đã nhường chiếc  cuối cùng của mình cho đồng đội, để rồi mãi mãi ra đi vào cõi vĩnh hằng chiều ngày 5/12/1990. Đó là liệt sĩ  - chuẩn úy Lê Đức Hồng đã cố gắng đến cùng giữ liên lạc với sở chỉ huy Quân chủng. Khi nhà giàn bị đổ, anh chỉ kịp gửi lời chào.

            Còn rất nhiều tấm gương hy sinh anh dũng như thế, để chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc được bình yên, vẹn toàn, để quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa phía Nam mãi mãi là một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam.

            Giọng vị Đại tá rưng rưng hòa cùng tiếng sóng biển vỗ về bên mạn tàu tưởng nhớ các anh. Máu thịt các anh đã thấm vào biển khơi, thấm vào lòng đất Mẹ, tiếp sức cho các thế hệ sau, để biển đảo Trường Sa hôm nay xanh hơn, để sự sống ngày một sinh sôi nảy nở, để Trường Sa mãi hòa cùng nhịp sống của đất nước.

            Giữa tháng 5 này, quân và dân huyện đảo Trường Sa nô nức cầm những lá phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016, thực hiện quyền công dân của mình trên phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Và quân, dân quần đảo Trường Sa cũng ấm lòng, bởi cả nước đã và đang sẽ mãi mãi chung sức, dốc lòng vì mảnh đất thiêng liêng nơi đầu sóng, ngọn gió. “Quỹ vì Trường Sa thân yêu” vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập sẽ thêm một địa chỉ tin cậy để đồng bào, chiến sĩ cả nước hướng về Trường Sa, bằng những tấm lòng, bàn tay, khối óc, những giọt mồ hôi lao động, để Trường Sa kiên trung – máu thịt của Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu đẹp.

NGÀY KHÔNG THỂ QUÊN

Trí Quân

Ngày đó, 14 – 3, không thể quên trong tâm thức người Việt. Ngày của tròn 25 năm về trước, 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam anh dũng ngã xuống tại đảo chìm Gạc Ma trong trận hải chiến bi hùng bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa.

Từng người lính lần lượt nhuộm máu mình trên những lá cờ tổ quốc cuốn quanh ngực…

Ba hôm trước, 26 tháng Giêng, trong ngày giỗ chung theo lịch ta, những người mẹ, người cha ở phường Hòa Cường – Đà Nẵng lại gặp nhau nơi nghĩa trang thành phố bên ngôi mộ của những đứa con của mình. Và như mọi năm, có người mẹ mặc lại chiếc áo hải quân của con gửi về trước khi ngã xuống. Hương hoa cùng những lời tủ rỉ tâm tình với con về chuyện nhà chuyện xóm. Dù chỉ là những ngôi mộ gió, bởi thân xác các con đã gửi lại biển khơi.

Nhớ khóe mắt rưng rưng của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Đào Trọng Lịch khi tàu HQ – 996 dừng lại nơi đảo chìm Cô Lin thả vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ.

Nhớ mãi lời dặn với riêng tôi của vị tướng già gần trọn đời chiến trường ấy, khi nói về những người lính đảo: “ Phải viết thật nhiều, thật hay về họ đấy, vì đó chính là những đứa con đẹp nhất của Tổ quốc mình, con ạ”. Đó là một ngày cuối xuân năm 1998. Không lâu sau, ông hy sinh tại một vùng rừng núi của Lào, khi trực thăng chở đoàn công tác gặp nạn.

Những đứa con Trường Sa tôi gặp trên đảo chìm Cô Lin tóc cháy vàng hoe và đôi mắt rực sáng. Những người con Trường Sa từng tham dự trận Hải chiến 1988, thương tích rải rác khắp cơ thể, nay vẫn lặng thầm cặm cụi mưu sinh ở nhiều miền quê tôi gặp, Những tân binh 18 tuổi vừa hôm qua nhập ngũ, nhiều người ngày mai sẽ lại ra Trường Sa.

Ngày 14 – 3 tới đây, 50 cựu binh từng chiến đấu bảo vệ Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao từ phần tư thế kỷ trước sẽ gặp lại nhau tại Đà Nẵng trong buổi giao lưu trang trọng, với sự tham dự của nhiều thế hệ cựu chiến binh và tuổi trẻ.

Đất nước đang từng ngày đối mặt với thách thức, khó khăn. Đã có không ít khiếm khuyết, sai lầm trong điều hành, quản lý ở ngành này, địa phương kia làm suy giảm lòng tin trong nhân dân.

Sự trà trộn chống phá thâm hiểm của kẻ ngoại bang nuôi tham vọng bành trướng cũng như sự lơ là mất cảnh giác của một bộ phận những người có trách nhiệm để lọt hàng hóa, văn hóa phẩm xuyên tạc chủ quyền khiến người dân không khỏi lo lắng.

Cũng không loại trừ một bộ phận trong xã hội đang cố tình lãng quên, hạ thấp sự hy sinh lớn lao của biết bao thế hệ cha anh để giành lấy độc lập, thống nhất hôm nay.

Nhưng Tổ quốc luôn trên hết. Hiển nhiên như hình ảnh những người lính đang đêm ngày kiên cường canh giữ biển đảo trùng khơi. Những đứa con đẹp nhất của Tổ quốc mình.

 

Bạn đọc thân mến và còn nhiều còn nhiều các câu chuyện cảm động khác nữa như: Hướng về Trường Sa, nuôi dưỡng lòng yêu nước; Vững niềm tin với Trường Sa; Hoàng Sa trong trái tim một nhà khoa học; Trường Sa xanh; Nước mắt những người đà bà chờ…

Bạn đọc hãy đến với Thư viện tỉnh Yên Bái để đọc và tìm hiểu nhiều hơn nữa kiến thức biển đảo trong cuốn sách này.

Lê Thị Thu Thủy

Phòng Tin Học  

 

XE THƯ VIỆN LƯU ĐỘNG

THƯ VIỆN VIDEO

LƯỢT TRUY CẬP